Cảm nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – bài mẫu 1

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Văn mẫu 9 – Cô Lê Minh Nguyệt
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Văn mẫu 9 – Cô Lê Minh Nguyệt

Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông … soan bai cau tran thuat don, soan van tim hieu chung ve phep lap luan giai thich, yhs-default, soạn sống chết mặc bay, vai trò của rừng đối với môi trường, Soạn văn bài Cầu Long Biên-chứng nhân lịch sử, phan tich hinh tuong cay xa nu qua tac pham rung xa nu cua nguyen trung thanh, ý nghia viec khac bia tien si trong bài Hien tai la, soan anh unit 14 lop 7, Văn8- bai soan NUOC DAI VIET TA

Cảm nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân

bài mẫu

1Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt

của

người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự

trọng

và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám,

Kim Lân

– nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là

nhân vật ông Hai trong

truyện ngắn “Làng” với tình yêu

làng

quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.Sinh ra và lớn lên nơi

làng

quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn

Kim Lân

đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc

về

cuộc sống ở nông thôn, sáng

tác

nhiều

tác phẩm về

đề tài này.

Trong

thời kì đầu

của

cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư,

ông

lại một

lần

nữa khắc họa hình ảnh người nông dân

trong

truyện ngắn “Làng”, không phải

trong

những vấn đề thường nhật, mà

về

tình yêu

làng

quê và đất nước

của

những con người chân lấm tay bùn ấy.

Tác phẩm

được đăng

lần

đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dâu bước chuyển biến tích cực

trong

hình tượng người nông dân và

nhân

thức

của

họ, đặc biệt qua

nhân vật ông

Hai.Nét tính cách đầu tiên và dễ

nhận

thấy nhất ở

ông Hai

là tình yêu tha thiết đối với

làng

ông. Đối với người nông dân,

làng

không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống

của

họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ.

Làng

chính là quê hương, là cuộc đời họ.

Ông Hai

cũng vậy,

ông

có tính hay khoe

làng

với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói

về

cái

làng

ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt

ông

sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu

làng

đã biến

ông Hai

thành một con người hoàn toàn khác so với một

ông Hai

bị gò bó, tù túng

trong

căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào

trong ông

lúc đó. Tối này đến tối khác,

ông

nói đi nói lại

về

cái

làng của

ông.

Kim Lân

điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc

ông

hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng

ông Hai

không thực sự cần bác Thứ nghe,

ông

nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại

nghĩ về

cái

làng của

ông, lại

nghĩ

đến những ngày cùng làm việc với anh em. […]

Ông

lại muốn

về

làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức

về làng

xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên

ông Hai

mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu

ông

cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với

ông Hai

lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì

trong

căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại,

trong ông

lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông

Hai

nhớ cái làng, nhớ cái

làng

quá.” Với ông, ngôi

làng của ông

vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở

trong

căn bếp tản cư chật hẹp, cái

làng

ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự

của ông Hai

là tâm sự

của

một người gắn bó với

làng

tha thiết, yêu

làng

bằng một niềm tự hào chân chính.Tình yêu

làng của ông Hai

được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi

ông

nghe tin

làng ông

theo Tây. Như xét đánh ngang tai,

ông

từ chối tin vào điều đó. “Cổ

ông

lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân.

Ông

lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau

ông

mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái

làng

đẹp đẽ

của ông

bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn

của ông

bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin

làng

mình theo Tây. Tội nghiệp

ông

lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt

ông

cứ giàn ra”. Giá

ông

không quá yêu làng, không quá tự hào

về

làng thì

ông

đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả

làng

chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào

về

cái

làng

ông

yêu vô cùng. Tất cả những gì

ông

trân

trọng

giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.

Ông

không chấp

nhận

được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là

nghi

ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người

làng

không sai rồi“). Phải thừa

nhận

cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau

của ông

lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả

làng

Việt gian !” Có lẽ

trong

đời mình,

ông Hai

chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như

cảm nhận

được nỗi xót xa, tủi nhục

của ông

lúc ấy. Mà

ông Hai

đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà

ông

còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan

tác

mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu

làng

trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương

trong

ông.

Kim Lân

đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp

trong

nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà

ông Hai

phải chịu đựng. Lúc này đây,

làng

không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.Không chỉ thế, tình yêu

làng

còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt

trong

ông, buộc

ông

phải lựa chọn giữa

làng

và nước. Nếu lúc trước

ông

tự hào,

ông

thao thao bất tuyệt

về làng

mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại,

ông

cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa,

ông

cũng chột dạ. Lúc nào

ông

cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là

ông

lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy

nghĩ

quá nhiều

về

một điều gì đó, lúc nào ta cũng có

cảm

tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ

của ông Hai

phải lớn đến chừng nào để

ông

bị dằn

vặt

tới vậy ! Lòng yêu

làng của ông

phải lớn biết chừng nào !

Kim Lân

đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân

tác

giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông

Hai

đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như

cảm nhận

được từng lời từng chữ

của

mụ như xoáy sâu vào tình yêu

làng

vốn đã quá tổn thương

của

ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến,

ông

vẫn không thể dứt bỏ tình

cảm

sâu đậm với

làng

quê, và vì thế mà

ông

càng đau xót, tủi hổ hơn.Bên cạnh tình yêu làng,

nhân vật ông Hai

còn ghi dấu

trong

mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.

Ông

luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào

về

những chiến công mà

nhân

dân ta đã lập nên. “Ruột gan

ông

lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa

làng

và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn

làng

mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”,

ông

vẫn nhất quyết không trở

về

làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ

về

con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu

làng

giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái

làng

ấy nữa.

Về làng

là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia,

ông

đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng

ông Hai

có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng

làng

theo Tây mất rồi thì phải thù.”

Nhận

thức rất mới này là một nét đặc biệt

trong

tính cách

của ông

Hai, đánh dấu sự thay đổi

của

người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.

Ông

luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy

của

mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất

ông

đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào

trong

lòng

ông

mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.”

Ông

Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật

của

mình, để nỗi khổ tâm

trong

lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước

của ông

thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và

cảm

động. Chính điều ấy đã giúp

ông

chịu đựng được tin đồn quái ác

về làng

mình, vì

ông

có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây,

ông Hai

nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng,

trong ông

còn có một tình yêu lớn gấp nhiều

lần

– lòng yêu nước.Đến khi tin

làng

chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước

của ông Hai

mới được

vẽ

lên hoàn chỉnh.

Ông Hai

như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một

lần

nữa, tình yêu làng, yêu nước

của ông

được thể hiện một cách chân thực,

cảm

động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở

về trong

ông.

Ông Hai

lại là

ông Hai

xưa.

Ông

lại nói

về làng

mình,

về

“Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt

nhẵn

!” Niềm vui sướng

của ông

được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với

ông

Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh

của làng

được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh

của

một

làng

Chợ Dầu mà

ông

hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy :

làng

Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu

làng

là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất

của

tình yêu nước

trong ông

Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu

làng

xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc

của

Nam Cao hay chị Dậu

của

Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối

trong

ruộng vườn thì

nhân vật ông Hai

đã có

nhận

thức rõ ràng

về

cách mạng,

về

kháng chiến.

Ông

đã

nhận

ra rằng : Đất nước còn thì

làng

còn, đất nước mất thì

làng

cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi

trong

suy

nghĩ

người nông dân, mà còn là suy

nghĩ của

mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ

của

dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn

của

mình mà gìn giữ nơi ấy ở

trong

tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công

nhân vật ông

Hai, đặc biệt qua tình huống

làng

Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt

của

đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó,

vẻ

đẹp

nhân vật

hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.”

Kim Lân

đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách

nhân

vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu

của nhân vật ông

Hai, những nét tính cách, những chuyển biến

trong nhận

thức và tính

cảm của

ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công

trong

nghệ thuật miêu tả tâm lí

nhân

vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách

nhân

vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó,

tác

giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ

của ông Hai

là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với

nhân vật ông

Hai,

Kim Lân

quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.Nguyễn Đình Thi từng viết rằng : “Tác

phẩm

nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những

vật

liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào

tác phẩm

một lá thư, một lời

nhắn

nhủ, anh muốn đem một phần

của

mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư

của nhân

dân miền Bắc

trong

buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến

trong nhận

thức và tình

cảm của

họ Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ

nhân

vật,

Kim Lân

đã mang đến cho bạn đọc

nhân vật

ông

Hai

với tình yêu

làng

quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.Các từ khóa

trọng

tâm ” cần nhớ ”

của bài

viết trên hoặc ” cách đặt đề

bài

” khác

của bài

viết trên:•

suy nghi ve nhan vat ong hai trong truyen lang

• Người nông dân truoc Cach mang thag Tam va

trong

khang chien chong Phap qua Lão Hạc và Làng• suy

nghĩ của em về nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng của kim lân

Cam nhan Ong hai

noi voi con

tac pham lang kim lan

Cảm nhận nhân vật ông Hai trong

truyện ngắn

làng

• suy

nghĩ về ông hai trong

truyện ngắn

làng

suy nghi cua em ve nhan vat ong hai trong truyen ngan lang cua

nha van

kim lan

• suy

nghi cua

em

vê nhân vât ông hai trong tac phâm lang

• suy

nghi cua

em

ve nhan vat ong hai trong tac

pahm

Lang

• Suy

nghi cua

em

ve

hinh tuơng nguoi nông dan

trong

cach mang thang tam qua

tac pham lang cua

kim lân• su chuyen bien tu tuong

cua

nguoinong dan

trong tac pham Lang cua Kim Lan

• Phan tich tinh yeu

lang

yeu nuoc

cua nhan vat ong hai

qua truyen ngan

lang

• phan tich

nhan vat ong hai trong truyen ngan lang cua kim lan

• phan tich hinh anh

ong hai trong

van ban

lang

ông hai trong

truyện ngắn

làng

có những

phẩm

chất đáng quý nào? , . Cảm nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – bài mẫu 1 Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô. lang kim lan • Cảm nhận nhân vật ông Hai trong truyện ngắn làng • suy nghĩ về ông hai trong truyện ngắn làng • suy nghi cua em ve nhan vat ong hai trong

Bạn đang xem bài viết: Cảm nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – bài mẫu 1. Thông tin được tạo bởi Trung Tâm Tiêng Anh Gemma chọn lọc và tổng hợp cùng với các chủ đề liên quan khác.

Similar Posts